Khi “chạy án” trở thành thu nhập chính trong hệ thống tư pháp: Công lý sẽ đi về đâu?

Cơ quan Điều tra Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao vừa đề nghị truy tố 23 cán bộ ngành tư pháp, về các hành vi đưa, nhận và môi giới hối lộ xảy ra tại Tòa án Nhân dân Cấp cao tại Đà Nẵng đã gây rúng động dư luận. 

Danh sách bị can bao gồm cả những người từng nắm giữ vị trí lãnh đạo cao trong bộ máy, như ông Phạm Việt Cường – cựu Phó Chánh án TAND Cấp cao tại Đà Nẵng, bà Nguyễn Thị Nga, cựu Phó trưởng phòng Giám đốc kiểm tra, cùng với nhiều người khác là Chánh án, Kiểm sát viên, luật sư.

Thông tin này đã khơi dậy một câu hỏi nhức nhối đã tồn tại trong nhiều năm: Khi “chạy án” trở thành nguồn thu nhập chính, thậm chí đã hình thành mô hình kinh doanh “quyền lực” trong hệ thống tư pháp thì Công lý ở Việt Nam sẽ đi về đâu? 

Trên thực tế, đã tồn tại song song với hệ thống tư pháp của Nhà nước là sự tồn tại của một hệ thống tư pháp “ngầm”. Kết quả điều tra đã cho thấy, ít nhất trong 18 vụ việc, các cán bộ tư pháp đã nhận tiền, môi giới hoặc dàn xếp các phán quyết có lợi cho đương sự. 

Riêng bà Nguyễn Thị Nga bị cáo buộc đã môi giới hơn 6,8 tỷ đồng là một con số khiến bất kỳ ai từng tin vào sự thanh liêm của ngành tư pháp cũng phải bàng hoàng.

Công luận thấy rằng, đây chỉ là bề nổi của một tảng băng chìm khổng lồ, nơi các bản án có thể được “thương lượng”, số phận bị cáo có thể được “thay đổi” bởi sức mạnh của đồng tiền.

Thậm chí, việc chạy án diễn ra công khai giữa “thanh thiên, bạch nhật”, khi các luật sư, thẩm phán, kiểm sát viên… lại ngồi chung một “bàn tròn” mặc cả và thỏa thuận. 

Nguy hiểm hơn, hệ thống tư pháp “ngầm” hiện nay đang vận hành trong bóng tối, nhưng nơi đây, quyền xét xử, truy tố, kháng nghị hay thi hành án không còn là chức năng pháp lý của Nhà nước. Mà là nơi trao đổi, mua bán công lý và có thể định giá bằng tiền bạc, miễn là “thuận mua, vừa bán” giữa các bên.

Một trong những nghịch lý trớ trêu là mức lương chính thức của cán bộ trong hệ thống tư pháp ở Việt nam hiện nay, như: công an, kiểm sát, tòa án hay thi hành án vẫn còn khá thấp. 

Nhưng dù lương thấp, họ lại được nhà nước giao cho nắm giữ quyền lực cực kỳ lớn trong việc quyết định tự do, tài sản, thậm chí sinh mệnh của người khác. 

Khi “tiền chạy án” trở thành thu nhập chính không chính thức, trong một hệ thống tư pháp thiếu sự kiểm soát độc lập và thiếu cơ chế giám sát hiệu quả. Và kiếm tiền chạy án trở thành “lối thoát” cho sự mâu thuẫn giữa quyền lực và mức thu nhập. 

Dần dần, “chạy án” không còn là hiện tượng cá biệt mà hình thành quy trình “ngầm” bất thành văn. Không chỉ là các cán bộ trong hệ thống tư pháp các cấp hầu hết đều tham gia khi có điều kiện.

Theo giới chuyên gia, hệ quả nghiêm trọng nhất của tình trạng này không chỉ là những bản án sai lệch, những kẻ có tội được trắng án hay xử rất nhẹ. Mà còn là sự xói mòn niềm tin của người dân vào nền tư pháp vốn dĩ đã mất đi sự công minh, và bị bẻ cong bởi tiền bạc.

Như, trong vụ án “tử tù oan” Hồ Duy Hải, người đứng đầu ngành tư pháp thời điểm đó là ông Nguyễn Hòa Bình đã từng bị công luận phản ứng kịch liệt, vẫn tiếp tục được thăng tiến lên Phó Thủ tướng thường trực.

Khi công lý bị mua bán, người yếu thế sẽ là nạn nhân đầu tiên. Người lao động nghèo, người dân thường, người không có mối quan hệ hay tiền bạc không thể “chạy án” sẽ luôn là bên thua thiệt nhất. 

Ngược lại, những kẻ phạm tội giàu có, có thế lực, dù phạm tội nặng đến đâu, cũng có khả năng thoát tội hoặc giảm án. Công lý khi đó không chỉ méo mó, mà còn trở thành công cụ đàn áp, bảo vệ lợi ích của nhóm nhỏ.

Nếu, số đông người dân hiểu rằng sự thật và pháp luật không còn là yếu tố quyết định, mà vấn đề “tiền bạc, mối quan hệ và thế lực” mới là nhân tố then chốt thì lòng tin của người dân vào công lý sẽ sụp đổ. 

Trà My – Thoibao.de